Từ ngày chị Tích vợ anh qua đời vì tai nạn rồi ông anh vợ rời Việt Nam đến định cư ở Hoa Kỳ. Thuyết trở thành người thừa hưởng cái cơ ngơi gồm một căn nhà khá rộng và một khu đất mênh mông, cỏ mọc um tùm quanh năm bởi anh không phải là người làm nông chuyên nghiệp. Thỉnh thoảng anh thuê người làm cỏ, thường là trước tết âm lịch hàng năm.
Năm nay, những ngày giáp Tết đã gần kề, anh khỏi làm vì hôm tháng mười một dương lịch ngày lể các Thánh, anh đi thăm mộ vợ ở nghĩa trang về thấy khu đất um tùm, nhớ đến hai ngôi mộ của người chủ trước bán lại cho ông anh rồi biệt tăm ba năm nay nên anh thuê người làm cỏ, vun nền, thắp nhang cho ngôi mộ, anh cũng gởi lể cầu hồn cho họ dù không biết tên Thánh là gì.
Ánh nắng đã tắt trong cái chập choạng của buổi chiều, Thuyết rờn rợn người khi thấy một bóng người ngồi ủ rủ nơi mé trái hàng hiên.
Bốn năm nay anh sống đơn độc, năm ngoái anh đón bà chị ruột đã lớn tuổi, cũng côi cút về ở cùng. Nghe tiếng xe của anh, người lạ ngẩng đầu lên, nhìn anh gật đầu chào cùng lúc bà chị xuất hiện nơi cửa chính, cất giọng nói to, cách nói của người già nghễnh ngãng: “Anh đây là chủ trước của khu đất, hai ngôi mộ là vợ và con của anh ấy.”
Nghe vậy, Thuyết dựng xe đến bắt tay người đàn ông. Cài tên của người khách thoáng qua trí nhớ của Thuyết, anh nhớ tới mớ giấy tờ sang nhượng đất mấy năm nay vẫn nằm trong tủ. Anh bèn lên tiếng: “Chào anh, anh là anh Hào. Sao chị không mời anh vào nhà? Anh đến lâu chưa?”
Người đàn ông lạ trả lời: “Cảm ơn anh, cũng mới thôi anh ạ.”
Thuyết tiếp tục hỏi: “Anh đã ra thăm chị và cháu chưa?”
“Tôi chờ anh về!”, người đàn ông lạ mỉm cười đáp.
“Không biết anh có Đạo hay không, Lễ các Thánh vừa rồi tôi có gởi lể cầu hồn cho chị và cháu nhưng không biết tên thánh là gì?”
Người đàn ông lạ đưa tay bắt tay Thuyết, anh ta bóp mạnh: “Tôi cũng Thiên Chúa Giáo. Cảm ơn anh lắm!”
Là người theo đạo Thiên Chúa Giáo thuần thành nhưng Thuyết thắp nhang thường xuyên. Anh vào nhà lấy nhang rồi kéo tay người đàn ông cùng đi ra góc vườn. Người đàn ông quỳ sụp xuống nơi ngôi mộ lớn, khóc rấm rức. Thuyết cũng nghèn nghẹn nơi cổ, vợ anh cũng đã chết tức tưởi sáu năm nay, sau hơn mười ba năm chung sống thuận hòa hạnh phúc, đứa con trai của anh nay đã vào đại học.
Từ lâu rồi, không hề gặp người đàn ông này để đề nghị đưa hai nấm mộ ra nghĩa trang rồi xây cất tử tế, theo ý nguyện của bố vợ anh. Không biết gì về họ, ngoài cái tên Hào nhưng nhìn người đàn ông gầy gò với những nếp nhăn khắc khổ trên gương mặt sạm đen, trong lòng anh dậy lên một mối cảm thương với anh ta.
Bóng tối phủ lên khu vườn, cảnh vật chìm trong cơn gió se lạnh của những ngày cuối đông. Người đàn ông đứng lên, lúng túng nhìn Thuyết ấp úng: “Cảm ơn anh đã chăm cho mộ vợ và con tôi bấy lâu nay.”
“Anh định đi đâu?”, Thuyết vồn vã hỏi.
“Tôi tính đi tìm một người quen cũ ngủ nhờ qua đêm, rồi mai thuê người đưa cô ấy và cháu ra nghĩa trang, mẹ tôi cũng chôn ở đó.”
“Sao không ở lại đậy với tôi, từ lâu rồi tôi mong gặp anh!”
Cả hai vào nhà, mâm cơm được bà chị dọn sẵn, Thuyết mời người lạ cùng ngồi vào bàn. Từ dạo sống như kẻ độc thân, Thuyết có thói quen uống rượu vào buổi chiều, khi thì ở trường cùng với đồng nghiệp, khi thì một người bạn nào đó. Nếu không thì bữa cơm tối anh cũng uống vài cốc, loại rượu trắng ngâm chuối hạt.
Anh mời người khách ngồi vào bàn, đơm cơm rồi rót rượu ra hai cái tách trà: “Mời anh, từ khi bán lại ngôi nhà, chắc là anh đi làm ăn xa?”
“Vâng, tôi lên Buôn Ma Thuột. Tôi đã có trước một đời vợ và có một đứa con trai, chúng tôi chia tay nhau mười năm nay. Cô ấy dành phần nuôi con rồi lên Buôn Ma Thuột làm ăn cùng người chồng mới. Hai ngôi mộ này là vợ và con thứ hai của tôi!”
oOo
Từ ngày chị Tích vợ anh qua đời vì tai nạn rồi ông anh vợ rời Việt Nam đến định cư ở Hoa Kỳ. Thuyết trở thành người thừa hưởng cái cơ ngơi gồm một căn nhà khá rộng và một khu đất mênh mông, cỏ mọc um tùm quanh năm bởi anh không phải là người làm nông chuyên nghiệp. Thỉnh thoảng anh thuê người làm cỏ, thường là trước tết âm lịch hàng năm.
Năm nay, những ngày giáp Tết đã gần kề, anh khỏi làm vì hôm tháng mười một dương lịch ngày lể các Thánh, anh đi thăm mộ vợ ở nghĩa trang về thấy khu đất um tùm, nhớ đến hai ngôi mộ của người chủ trước bán lại cho ông anh rồi biệt tăm ba năm nay nên anh thuê người làm cỏ, vun nền, thắp nhang cho ngôi mộ, anh cũng gởi lể cầu hồn cho họ dù không biết tên Thánh là gì.
Ánh nắng đã tắt trong cái chập choạng của buổi chiều, Thuyết rờn rợn người khi thấy một bóng người ngồi ủ rủ nơi mé trái hàng hiên.
Bốn năm nay anh sống đơn độc, năm ngoái anh đón bà chị ruột đã lớn tuổi, cũng côi cút về ở cùng. Nghe tiếng xe của anh, người lạ ngẩng đầu lên, nhìn anh gật đầu chào cùng lúc bà chị xuất hiện nơi cửa chính, cất giọng nói to, cách nói của người già nghễnh ngãng: “Anh đây là chủ trước của khu đất, hai ngôi mộ là vợ và con của anh ấy.”
Nghe vậy, Thuyết dựng xe đến bắt tay người đàn ông. Cài tên của người khách thoáng qua trí nhớ của Thuyết, anh nhớ tới mớ giấy tờ sang nhượng đất mấy năm nay vẫn nằm trong tủ. Anh bèn lên tiếng: “Chào anh, anh là anh Hào. Sao chị không mời anh vào nhà? Anh đến lâu chưa?”
Người đàn ông lạ trả lời: “Cảm ơn anh, cũng mới thôi anh ạ.”
Thuyết tiếp tục hỏi: “Anh đã ra thăm chị và cháu chưa?”
“Tôi chờ anh về!”, người đàn ông lạ mỉm cười đáp.
“Không biết anh có Đạo hay không, Lễ các Thánh vừa rồi tôi có gởi lể cầu hồn cho chị và cháu nhưng không biết tên thánh là gì?”
Người đàn ông lạ đưa tay bắt tay Thuyết, anh ta bóp mạnh: “Tôi cũng Thiên Chúa Giáo. Cảm ơn anh lắm!”
Là người theo đạo Thiên Chúa Giáo thuần thành nhưng Thuyết thắp nhang thường xuyên. Anh vào nhà lấy nhang rồi kéo tay người đàn ông cùng đi ra góc vườn. Người đàn ông quỳ sụp xuống nơi ngôi mộ lớn, khóc rấm rức. Thuyết cũng nghèn nghẹn nơi cổ, vợ anh cũng đã chết tức tưởi sáu năm nay, sau hơn mười ba năm chung sống thuận hòa hạnh phúc, đứa con trai của anh nay đã vào đại học.
Từ lâu rồi, không hề gặp người đàn ông này để đề nghị đưa hai nấm mộ ra nghĩa trang rồi xây cất tử tế, theo ý nguyện của bố vợ anh. Không biết gì về họ, ngoài cái tên Hào nhưng nhìn người đàn ông gầy gò với những nếp nhăn khắc khổ trên gương mặt sạm đen, trong lòng anh dậy lên một mối cảm thương với anh ta.
Bóng tối phủ lên khu vườn, cảnh vật chìm trong cơn gió se lạnh của những ngày cuối đông. Người đàn ông đứng lên, lúng túng nhìn Thuyết ấp úng: “Cảm ơn anh đã chăm cho mộ vợ và con tôi bấy lâu nay.”
“Anh định đi đâu?”, Thuyết vồn vã hỏi.
“Tôi tính đi tìm một người quen cũ ngủ nhờ qua đêm, rồi mai thuê người đưa cô ấy và cháu ra nghĩa trang, mẹ tôi cũng chôn ở đó.”
“Sao không ở lại đậy với tôi, từ lâu rồi tôi mong gặp anh!”
Cả hai vào nhà, mâm cơm được bà chị dọn sẵn, Thuyết mời người lạ cùng ngồi vào bàn. Từ dạo sống như kẻ độc thân, Thuyết có thói quen uống rượu vào buổi chiều, khi thì ở trường cùng với đồng nghiệp, khi thì một người bạn nào đó. Nếu không thì bữa cơm tối anh cũng uống vài cốc, loại rượu trắng ngâm chuối hạt.
Anh mời người khách ngồi vào bàn, đơm cơm rồi rót rượu ra hai cái tách trà: “Mời anh, từ khi bán lại ngôi nhà, chắc là anh đi làm ăn xa?”
“Vâng, tôi lên Buôn Ma Thuột. Tôi đã có trước một đời vợ và có một đứa con trai, chúng tôi chia tay nhau mười năm nay. Cô ấy dành phần nuôi con rồi lên Buôn Ma Thuột làm ăn cùng người chồng mới. Hai ngôi mộ này là vợ và con thứ hai của tôi!”
oOo
Suốt đêm hôm ấy và mấy đêm sau nửa, Thuyết không ngủ được, anh trằn trọc với những khốn khổ mà Hào, người khách gặp hôm cuối năm kể lại. Bố vợ anh có ý tự nguyện giúp cho Hào một khoản tiền, đủ để xây cho ba ngôi mộ luôn cả mộ mẹ của Hào.
Hôm xong xuôi, Hào nghẹn ngào ôm Thuyết mếu máo những lời cảm ơn. Không lớn lao to tát, nhưng ba nấm mộ cũng khá khan trang. Hào trở lại Buôn Ma Thuột. Chia tay nhau nơi bến xe, tấp nập người đi kẻ về vào những ngày cuối năm, dáng Hào đơn độc, bước đi liêu xiêu với cái túi xách trên vai. Thuyết cúi đầu quay trở về, lòng trĩu nặng như mang theo nỗi bất hạnh của Hào.
Anh ngẩm nghĩ: “Hạnh phúc của kiếp con người, bao giờ cũng mong manh ngắn ngủi nhưng nỗi bất hạnh thì xem chừng như trùng trùng, vô tận.”
– Trạch An – Trần Hữu Hội –